english version Tiếng Việt
RDDL DAKLAK - Welcome Page
Các dân tộc thiểu số ở tỉnh Dak Lak
9.Apr.2015
      >> /  Dự án Phát triển Nông thôn Dak Lak (RDDL) /  Dự án /  Các dân tộc thiểu số ở tỉnh Dak Lak
     
 

Các dân tộc thiểu số ở tỉnh Dak Lak

Đắk Lắk ngày nay là địa bàn giao lưu văn hoá của nhiều dân tộc anh em và nhiều nhóm địa phương. Tỉnh Đắk Lắk có 44 nhóm đồng bào dân tộc, chiếm khoảng 32% trong tổng số dân toàn tỉnh là 1,734 triệu người. Trong  đó Êđê, M’nông và J’rai là các tộc người tại chỗ hay tộc người địa phương chính, c̣n các tộc người khác di cư đến trong 30 năm qua, như Tày, Nùng, Mường, Dao, Thái và Mông. Phần lớn các tộc người c̣n giữ lại di sản văn hoá riêng, tạo thành một mảng màu đặc sắc trong toàn bộ đời sống văn hoá Cao Nguyên Việt Nam, hay c̣n gọi là Tây Nguyên. Tuy các tộc người không cư trú thành những vùng riêng, song các ḍng họ thường sống tập trung tại những địa bàn nhất định.

 

Trong tất cả các tỉnh cao nguyên trung phần, có thể nói Đắk Lắk là quê hương của người Êđê, v́ đại đa số họ sống ở đây và có dân số đông nhất trong các dân tộc thiểu số của tỉnh Đắk Lắk với 285,715 người. Người Êđê nói bằng ngôn ngữ riêng có nguồn gốc từ nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesian, cư trú chủ yếu tại Thành phố Buôn Ma Thuột, huyện Krông Păk, Krông Buk, Ea Sup và M’Drak.

 

Sản xuất nông nghiệp trong đó làm rẫy (hma) chiếm vị trí trọng yếu. Những mảng rừng thưa, trảng cỏ hay trên những sườn đồi thường được chọn làm nơi phát cây làm rẫy với những cộng cụ đơn giản như ŕu (jông), xà gạc (kgac), cuốc xới đất luỡi nhỏ (wăngbriêng), cào cỏ (hwar).

Do khí hậu Tây Nguyên phân thành 2 mùa rơ rệt, đồng bào Êđê chỉ canh tác, cấy trồng một vụ trong năm vào mùa mưa và luân canh. Những năm gần đây, đồng bào đă dần biết áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiến tiến tăng năng suất và đa dạng hoá sản xuất, ví dụ lúa, bắp, đậu, rau và sản phẩm khác. Việc trồng cây công nghiệp như hồ tiêu, cà phê, cao su dần dần đóng vai tṛ quan trọng trong kinh tế hộ gia đ́nh người Êđê. Bên cạnh trồng trọt, người Êđê c̣n chăn nuôi trâu, ḅ, lợn, dê, gà, vịt, ngan, ngỗng và gia súc khác. Gia đ́nh giàu có hàng trăm đầu trâu, ḅ. Trâu ḅ vừa là biểu hiện khối tài sản của một gia đ́nh, vừa là vật định giá trong các cuộc trao đổi những chiếc chiêng, ché quư. Trâu ḅ, dê, heo c̣n được dùng làm vật hiến sinh, phục vụ những nghi lễ trong năm của gia đ́nh và cộng đồng.

 

Cho đến nay, người Ede vẫn theo chế độ mẫu hệ. Cơ sở xă hội truyền thống là buôn. Buôn của người Ede là nơi quần tụ của vài chục, có đến khi vài trăm nóc nhà dài làm theo kiểu nhà sàn với kích thước và quy mô khác nhau phụ thuộc vào số lựơng các thành viên trong đại gia đ́nh mẫu hệ. Mỗi buôn có phạm vi rừng và phạm vị cư trú riêng. Ranh giới của phạm vi này là các ranh giới tự nhiên như một ḍng suối, một gốc cây hay một mỏm đá. Trong phạm vi đất rừng và đất cư trú của buôn ḿnh, mọi người dân trong buôn đều có quyền tự do khai thác, săn bắt, hái lượm, chọn đất làm rẫy nhưng vi phạm sang khu vực như rừng thiêng khác là điều cấm kỵ.

 

Trong mọi hoạt động xă hội, phong tục, nghi lễ mang tính cộng đồng đều phải tuân theo những luật lệ chung do một bộ máy tổ chức mang tính tự quản mà người đứng đầu là khoa kpin ea c̣n được gọi là mtao (già làng), điều hành luật tục trong buôn có pô phạt kđy (người xử kiện) để luận tội những kẻ vi phạm luật tục, ḥa giải các mâu thuẫn giữa các thành viên trong cộng đồng buôn, ngoài ra cũng có những pô riu Yang (người khấn thần) để thay mặt dân làng thực hiện các nghi lễ tín ngưỡng và các pa ghê (thầy bói, thầy cúng) để chữa bệnh bằng các h́nh thức bói toán.

 

Những đại gia đ́nh cùng chung sống trong một ngôi nhà dài, đứng đầu mỗi gia đ́nh là một người đàn bà cao tuổi và có uy tín (khoa sang), có trách nhiệm trông nom toàn bộ tài sản chung của đại gia đ́nh, quyết định việc sản xuất và đời sống gia đ́nh, đại diện cho gia đ́nh trong các mối quan hệ với buôn làng. Con cái mang họ mẹ. Của cải được thừa kế theo ḍng họ nữ.

 

Người Êđê theo tín ngưỡng đa thần thể hiện trong các nghi lễ về mọi mặt của cuộc sống. Có những nghi lễ theo ṿng đời từ khi người mẹ mang thai đến khi đứa trẻ sinh ra, lớn lên, dựng vợ, gả chồng đến khi già, chết; có những nghi lễ thuộc ṿng sinh trưởng của cây trồng từ khi chọn đất làm rẫy cho đến khi thu hoạch; và những nghi lễ của chung cộng đồng như lễ cúng bến nước thường được tổ chức vào đầu mùa mưa, ngoài ra c̣n có lễ trước Kpan khi dựng xong nhà mới. Đối với quan niệm về cái chết, người Êđê dựng các ngôi nhà mồ đặc sắc có tượng xung quanh để canh gác giai đoạn khi chuyển tiếp từ sống sang chết và sang cuộc sống thế giới bên kia.

 

Tộc người thiểu số với dân số nhiều thứ hai ở tỉnh Đắk Lắk là người M’nông với dân số khoảng 38.298 người. Người M’nông thuộc ngữ hệ Môn- Khơme, nhóm Bahnar Nam, phân bố tập trung nhiều ở các huyện Lak, Krông Bông, Krông Nô, Buôn Đôn. Người M’nông sống trong những ngôi làng mà họ gọi là bon. Mỗi bon có vài chục nóc nhà dài. Rừng và đất bao quanh theo truyền thống phục vụ cho trồng trọt, săn bắt, khai thác gỗ, có ranh giới tự nhiên như suối, ao hồ ..v..v..Trong mỗi bon, c̣n có những đơn vị cư trú nhỏ hơn, ví dụ aluh (xóm). Cũng như người Êđê, người M’nông theo chế độ mẫu hệ, những gia đ́nh lớn sống chung trong một ngôi nhà, đứng đầu là một người phụ nữ. Nếu người Êđê sống trong những ngôi nhà sàn th́ người M’nông lại sống ở những ngôi nhà trệt.

 

Trước đây người M’nông chủ yếu dựa vào luân canh ở vùng cao, nhưng trong những thập kỷ gần đây họ đă dần dần định canh trong sản xuất nông nghiệp, đa dạng hoá sản xuất lương thực như lúa, bắp hoặc đậu và c̣n trồng các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê và hồ tiêu. Ngày nay chăn nuôi trâu, ḅ, gia súc, heo, gà đóng vai tṛ quan trọng trong kinh tế  hộ gia đ́nh. Tuy nhiên, thu nhặt lâm sản vẫn c̣n là nguồn lương thực truyền thống quan trọng.

 

Người M’nông nổi tiếng về truyền thống săn bắt và thuần dưỡng voi rừng. Trước đây, voi được dùng để kéo gỗ, vận chuyển và săn bắt cũng như để lấy ngà. Ngày nay, voi c̣n là con vật thu hút khách du lịch đến tỉnh Đắk Lắk . Huyện Buôn Đôn đă trở thành trung tâm chính săn bắt và thuần dưỡng voi.

 

Trong đời sống tinh thần của người M’nông có rất nhiều nghi lễ và lễ hội liên quan chặt chẽ đến ṿng đời cũng như tập quán canh tác của họ. Có nghi lễ lơ yang koih diễn ra trước khi trồng cây hay lễ tắm lúa khi cho lúa vào kho. Thêm vào đó, c̣n có các nghi lễ chung, ví dụ nghi lễ lập bon mới hoặc bắt đầu mùa săn.

 

Y phục truyền thống của đồng bào phổ biến là các loại áo choàng, quần hoặc váy, áo chui đầu, khố được dệt bằng các hoa văn kim tuyến với các màu sắc cơ bản như đỏ, đen, xanh thẫm, trắng, tím. Các hoa văn trang trí tương tự các h́nh vẽ động vật, hoa lá cách điệu.

 

Người Jrai cư trú tập trung ở hai huyện Ea Sup và Ea hleo, và vùng Ayaunpa, vùng lân cận tỉnh Gia Lai. Ở Đắk Lắk, có khoảng 13.589 người J’rai. Cũng như dân tộc Êđê, J’rai là một trong những tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo- Pholynesien, hệ Nam Đảo. Xă hội J’rai theo chế độ mẫu hệ, đứng đầu gia đ́nh là một phụ nữ. Giúp việc cho bà có hội đồng dăm dei gồm những ngựơi đàn ông là anh em cùng huyết thống phía mẹ với bà chủ nhà.

 

Xưa kia, làng (plei hoặc plơi) được h́nh thành bởi một gia đ́nh duy nhất. Tuy nhiên, ngày nay, một số gia đ́nh có thể sống chung trong một ngôi làng do một hội đồng những người phụ nữ  đứng đầu gia đ́nh (phun sang) quản lư.

 

Giống như người Êđê, địa điểm sinh hoạt cộng đồng của người J’rai thường diễn ra ở bến nước và trong ngôi nhà cộng đồng dài, gọi là nhà rông (sang rung).  Cũng giống như  hầu hết các tộc người Tây nguyên khác, nghi lễ đóng vai tṛ quan trọng trong xă hội J’Rai và được tổ chức thường xuyên vào giai đoạn chuyển tiếp từ mùa khô sang mùa mưa (tháng Ba/Tư) và sau vụ gặt (tháng Mười Một/Mười Hai). Tha plơi là người đứng ra tổ chức và đại diện cho dân làng trong các sinh hoạt nghi lễ của cộng đồng. Bên cạnh đó, mỗi làng J’rai đều có một số người làm nghề thầy cúng, làm trung gian giữa người và thần linh.

 

Đối với tất cả tộc người địa phương Tây Nguyên, âm hưởng cồng chiêng đi suốt ṿng đời từ lúc sinh ra đến tuổi trưởng thành và cả khi về với thế giới ông bà. Giai điệu chiêng J’rai, Êđê và M’nông du dương, trữ t́nh, âm trầm, nhiều tiết tấu làm nao nức không chỉ người dân ở buôn làng Tây Nguyên mà c̣n làm nao nức ḷng người Tây Nguyên xa quê. Cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hoá.

Rượu cần là loại rượu uống phổ biết nhất của các cư dân bản địa Tây Nguyên. Làm rượu cần và uống rượu cần đă trở thành phong tục có nguồn gốc lâu đời, thành nét văn hoá trong đời sống của họ. Uống rượu cần là một nghi lễ thường để vinh danh khách. Người có uy tín nhất trong buôn hoặc chủ nhà uống trước có ư nghĩa thông báo với mọi người rằng đây là một ché rượu ngon. Sau đó khách mời danh dự rồi mới đến các thành viên khác trong cộng đồng thưởng thức ché rượu ngon

 
  Thông tin toà soạn © 2007